Giải pháp phục hồi kinh tế Việt Nam sau đại dịch covid-19

Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, làm gián đoạn hoạt động kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới. Và nó đã gây ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế Việt Nam, đặc biệt là ảnh hưởng đến kết quả tăng trưởng kinh tế (GDP) cả nước. Các đợt dịch kéo dài khiến các tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Bình Dương,…, nơi tập trung đông dân cư, khu công nghiệp, khu chế xuất và các doanh nghiệp lớn trong chuỗi giá trị toàn cầu, đóng góp nhiều cho phát triển kinh tế và thu ngân sách phải thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16 trong thời gian dài. Điều này khiến GDP quý III/2021 có mức giảm 6,17% so với cùng kỳ năm 2020.

Khi đại dịch bùng phát, giãn cách xã hội kéo dài dẫn đến đứt gãy lưu thông, sản xuất kinh doanh bị đình trệ. Nhiều doanh nghiệp muốn duy trì sản xuất đã phải lựa chọn phương án sản xuất “3 tại chỗ” nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, nếu không sẽ phải tạm ngừng hoạt động cho đến khi có thông báo mới từ trung ương hay tỉnh, thành phố đó. Ngay cả khi hoạt động như vậy, các doanh nghiệp cũng phải chịu chi phí vận hành rất lớn, lực lượng lao động thiếu hụt do nghỉ việc, cung ứng nguyên vật liệu bị gián đoạn nên nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã không thể hoàn thành đơn hàng đúng hạn, phải giãn hoặc hủy bỏ hợp đồng. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản, giải thể do kiệt quệ, không đủ lực để chống chịu dịch bệnh kéo dài. Một số doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh hoặc kinh doanh cầm chừng, trì hoãn việc sản xuất do không hiệu quả, thua lỗ trong điều kiện rất khó khăn. Thực tế đó đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải đưa ra các giải pháp phù hợp để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh và phục hồi nền kinh tế.

Để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển sản xuất – kinh doanh, phục hồi kinh tế, Bộ Chính trị, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp tổng thể các biện pháp nhằm kịp thời ứng phó với dịch bệnh như: giảm lãi suất; cơ cấu lại nợ; giảm, giãn nộp thuế, bảo hiểm xã hội; miễn, giảm phí một số dịch vụ công; giảm, giãn nộp tiền thuê đất,… và đặc biệt là đã đưa ra gói hỗ trợ an sinh 62 nghìn tỷ đồng lớn chưa từng có. Tuy nhiên, bên cạnh tính hiệu quả, tích cực của các chính sách, giải pháp đã ban hành, trong quá trình tổ chức thực thi cũng cho thấy tồn tại một số hạn chế, vướng mắc như: (i) Việc quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số biện pháp do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành còn chưa kịp thời, việc triển khai thực hiện một số cơ chế, chính sách còn chậm, hiệu quả tổ chức thực hiện một số chính sách chưa cao; (ii) Tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công thấp do giai đoạn đầu áp dụng điều kiện, tiêu chuẩn còn quá cao, quy trình, thủ tục rườm rà, thiếu linh hoạt; (iii) Thông tin, hướng dẫn chưa kịp thời đến doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, hợp tác xã khó tiếp cận, chưa phù hợp nhu cầu của doanh nghiệp; (iv) Nhiều khó khăn tích tụ đến nay không chỉ là vấn đề của riêng doanh nghiệp mà trở thành vấn đề chung của ngành, lĩnh vực.

Do đó, để thực hiện có hiệu quả mục tiêu kép vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội, bên cạnh việc tiếp tục đẩy mạnh chiến dịch tiêm vắc-xin cho toàn dân, cần tổ chức thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau để phát triển kinh tế:

Thứ nhất, tiếp tục rà soát, hoàn thiện và nâng cao tính khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật. Việc nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, rà soát văn bản quy phạm pháp luật để phát hiện những nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn, qua đó khẩn trương xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật, đáp ứng yêu cầu khai thông điểm nghẽn, hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động đầu tư, sản xuất – kinh doanh.

Thứ hai, cải thiện môi trường kinh doanh thúc đẩy phục hồi kinh tế và gia tăng sức chống chịu sau đại dịch Covid-19. Một môi trường kinh doanh thuận lợi có ý nghĩa quan trọng đối với sức chống chịu lâu dài của nền kinh tế và giúp phục hồi nhanh chóng sau khủng hoảng. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hiện nay, việc tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh là điều quan trọng, bảo đảm khôi phục kinh tế và phục hồi niềm tin của các nhà đầu tư. Về trung và dài hạn, môi trường kinh doanh sẽ tác động đến cách thức vượt qua đại dịch và mức độ tận dụng cơ hội của các doanh nghiệp khi bắt đầu quá trình phục hồi. Chất lượng môi trường kinh doanh cũng có vai trò quan trọng đối với đầu tư nước ngoài và sự kiện kết của các doanh nghiệp nội địa với các chuỗi cung ứng toàn cầu. Thực tế cho thấy, cải thiện hiệu quả các quy định về thị trường hàng hóa và tạo thuận lợi cho kinh doanh sẽ hỗ trợ mạnh đối với phục hồi kinh tế sau khủng hoảng.

Thứ ba, chủ động, linh hoạt trong quản lý, điều hành thu chi ngân sách. Cần thường xuyên chủ động rà soát các khoản thu ngân sách, nhất là thu thuế, phí, thu khai thác khoáng sản, vãng lai, thu từ tiền sử dụng đất đối với các dự án chưa nộp. Triệt để thực hiện tiết kiệm chi thường xuyên để ưu tiên dành nguồn chi đầu tư phát triển, tiết kiệm chi hành chính, hội họp, đi công tác; đồng thời bảo đảm nguồn lực cho phòng, chống dịch và tăng chi tiêu cho an sinh xã hội.

Thứ tư, đẩy mạnh hoàn thiện thủ tục đầu tư, thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công. Triển khai đồng bộ các biện pháp nhằm đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công là biện pháp quan trọng hàng đầu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nhất là các dự án trọng điểm, dự án khởi công mới. Do vậy, cần khẩn trương phân bổ và giao chi tiết kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước cho các nhiệm vụ, dự án đúng quy định, phù hợp với tiến độ thực hiện và khả năng giải ngân, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, manh mún, kéo dài. Trong thực hiện cần chủ động có kế hoạch và giải pháp cụ thể tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thi công; thanh toán vốn cho dự án ngay khi có khối lượng nghiệm thu theo quy định; chủ động điều chuyển kế hoạch vốn từ các dự án chậm giải ngân sang các dự án có tiến độ giải ngân tốt, còn thiếu vốn. 

Thứ năm, tăng chi cho an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm cho người lao động. Cần rà soát và có chính sách hỗ trợ phù hợp với người có hoàn cảnh khó khăn do tác động của dịch bệnh, đặc biệt tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho các nhóm dễ bị tổn thương như lao động phi chính thức và đối tượng thất nghiệp; Hỗ trợ chi phí thuê nhà cho người lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất; Cho người lao động vay ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội;… Việc triển khai các hỗ trợ cần phải linh hoạt hơn để đảm bảo tiền hỗ trợ được chuyển nhanh chóng và kịp thời đến các nhóm đối tượng được thụ hưởng. Bên cạnh đó, cũng cần có chính sách hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại người lao động; Nâng cao hiệu quả kết nối cung cầu lao động; Nâng cao năng lực các trung tâm dịch vụ việc làm, trường nghề chất lượng cao,… để góp phần hỗ trợ giải quyết việc làm cho người lao động.

Thứ sáu, hỗ trợ phục hồi hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh. Hỗ trợ phục hồi hoạt động sản xuất – kinh doanh của các doanh nghiệp (đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ), hợp tác xã, hộ kinh doanh bằng cách tiếp tục thực hiện các chính sách miễn thuế, giảm thuế, gia hạn thuế, phí, lệ phí, các chính sách cơ cấu lại nợ; Điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp, tiếp tục cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ; Tiếp tục tiết giảm chi phí hoạt động của các ngân hàng thương mại để có dư địa giảm mặt bằng lãi suất cho vay, nhất là trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên; Có chính sách hỗ trợ phù hợp cho một số ngành, lĩnh vực ưu tiên như sản xuất và chế biến nông, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ vận tải, du lịch, thúc đẩy thành lập doanh nghiệp khởi nghiệp, sáng tạo, phát triển khu công nghiệp, khu công nghệ cao, xuất khẩu bền vững.

For Clients Speaking English

ANT Lawyers is a law firm in Vietnam with English speaking lawyers, located in the business centers of Hanoi, Danang and Ho Chi Minh City to provide convenient access to our clients. Please contact us via email ant@antlawyers.vn or call our office at +84 28 730 86 529 for legal service in Vietnam